Thành phố Istanbul được coi là trái tim của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ với hơn 2.600 năm lịch sử, Istanbul có nhiều nhà thờ, đền thờ hồi giáo và nhi ều điểm tham quan hấp dẫn. Đặc biệt khu phố lịch sử của Istanbul đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Với những công trình kiến trúc có giá trị lịch sử này mà thành phố Istanbul đã thu hút hàng triệu lượt khách tham quan mỗi năm.
Bài viết sau đây giới thiệu về Istanbul của nhà báo Peter Dũng Nguyễn, khi được Turkish Airlines mời đi thăm quan Istanbul.
Khi chúng tôi, khách mời của Hãng Hàng không Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ (Turkish Airlines) đặt những bước chân đầu tiên đến Istanbul, điểm du lịch số một của Thổ Nhĩ Kỳ, thì “Lale Devra” (thời hưng thịnh của văn hóa nghệ thuật, kiến trúc và lối sống của đế chế Ottoman) đã qua từ lâu lắm rồi. Và thời điểm lale nở rộ đầu xuân cũng đã kết thúc khoảng một tuần trước đó. Lale là gì ? Thưa lale chính là hoa tulip, là hoa uất kim hương. Nhưng đất nước này còn rất nhiều thứ hấp dẫn khác chắc chắn sẽ khiến các bạn có một hành trình thú vị, nhớ đời”.
Quả thực, nhờ có rất nhiều di tích của các nền văn minh Hy Lạp, La Mã và Ottoman lại được cộng thêm những ảnh hưởng văn minh châu Á xuyên qua Con đường tơ lụa và những địa chỉ hành hương thánh thiêng đối với các tín hữu Kytô giáo nên Thổ Nhĩ Kỳ luôn là điểm đến du lịch rất hấp dẫn. Và điểm đến số một của đất nước này chính là Istanbul, một thành phố rộng lớn, đông dân, trù phú trước đây gọi là Constantinople, đặt theo tên hoàng đế La Mã Constantin Cả. Istanbul nằm bên bờ Sừng vàng, nhánh tự nhiên dài 7,5km của eo biển Bosphorus. Đây là điểm nối kết hai lục địa, châu Âu ở bên hướng tây và châu Á ở bên hướng đông.
Có hơn 48% tổng lượng khách quốc tế đi du lịch Thổ Nhĩ Kỳ đến với Istanbul cho nên, ngay trong buổi sáng ngày đầu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ, ông Ammet Bingen, một hướng dẫn viên với hơn 20 năm kinh nghiệm, cho đoàn khách Việt xuống du thuyền đi một vòng trên biển Sừng vàng. Hàng mấy ngàn năm trước, từ nhánh biển này những thương thuyền Hy Lạp, La Mã, Byzantin (tên gọi đế chế La Mã phương Đông), Ottoman đã tìm vào cảng Istanbul, góp phần làm cho thành phố phát triển trù phú.
Du thuyền đưa chúng tôi đi qua những địa danh du lịch nổi tiếng thế giới, từ Hagia Sophia (một thánh đường Kytô giáo sau chuyển thành giáo đường Hồi giáo và ngày nay là bảo tàng) qua cung điện Topkapi, nơi sinh sống và làm việc của nhiều sultan Ottoman đến Mosque xanh, nhà thờ Hồi giáo thánh thiêng và to lớn nhất Istanbul.
Rồi còn là hai dinh thự tuyệt đẹp Dolmabache xây dựng năm 1856 để thay thế cho Topkapi và Beylerbeyi, cung điện mùa hè, hoàn tất năm 1865. Nhưng một kiến trúc xưa khiến mọi du khách bị choáng vì sự đồ sộ của nó chính là pháo đài Rumeli ngự trị trên sườn đồi cao, một “tác phẩm kiến trúc” của sultan Mehmed II vào năm 1451, khi quân lính của ông đang bao vây Constantinople. Những tường thành dài với ba tháp canh cao to và 13 tháp canh nhỏ đã được xây dựng hoàn tất chỉ sau 4 tháng và 16 ngày. Năm 1453, vị vua mới 21 tuổi mà đã mang biệt danh “Fatih” (Kẻ chinh phục) này chiếm được Constantinople và đổi tên thành Istanbul, thủ đô của đế chế Ottoman (kéo dài từ 1299 đến 1922).
Ở gần đó, trong thời hiện đại đã có cây cầu dây văng khổng lồ, tương xứng, mang tên Cầu Fatih Sultan Mehmed, bắc ngang eo biển Bosphorus.
Phố cổ hoàng gia
Trở lên bờ, theo chân hướng dẫn viên, đoàn chúng tôi bắt đầu hành trình đi bộ khám phá toàn khu phố cổ nhất mà cũng hoành tráng và nổi tiếng nhất của Istanbul ở phần đất phía bên châu Âu. Ngày nay, khu này gọi là Quận Sultan Ahmed, đặt theo tên vua Ahmed I, trị vì từ 1603 đến 1617, là sultan thứ 14 của Đế chế Ottoman. Chính ông là người cho xây dựng Blue Mosque (tên chính thức là nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed, khởi công năm 1609, hoàn tất năm 1617), được xem như là tuyệt tác của kiểu kiến trúc Hồi giáo. Nó có đến sáu tháp cao nhọn (minaret).
Lăng mộ của ông, sát cạnh ngôi giáo đường nguy nga này, nay là một điểm tham quan của rất nhiều du khách. Và cả một quảng trường rộng lớn phía trước cũng được đặt theo tên vị vua này, Sultanahmed. Tập trung quanh nơi đây - toàn khu phố cổ hoàng gia này đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vào năm 1985 - là những địa chỉ du lịch, tham quan hàng đầu của Istanbul.
Đó không chỉ là Blue Mosque mà còn là cung điện Topkapi, nơi được xem là trung tâm quyền lực của đế chế Ottoman trong hơn 400 năm. Cung điện được khởi công xây dựng năm 1459 rồi liên tục được mở rộng, phát triển cho đến khi toàn phức hợp chiếm diện tích lên hến hơn 80 héc-ta. Rồi còn là Hippodrome, một sân đua ngựa có từ thời đế chế La Mã phương Đông.
Và không thể bỏ quên Hagia Sofia, xây dựng năm 532, hoàn tất năm 537, là dấu chứng đặc trưng của hai nền văn minh Đế chế La Mã Phương Đông Byzantin và đế chế Ottoman lẫn của hai tôn giáo lớn là Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Du khách rất dễ dàng nhận biết hình ảnh Đức bà Maria bồng Chúa Hài đồng Yesu được khắc trạm trên mái vòm và ngay phía dười là cầu thang với chóp nhọn, một địa điểm dành cho giáo sĩ Hồi giáo hướng dẫn tín hữu cầu kinh với đấng Allah.
Nếu như Blue Mosque ngắm rất đẹp ở phía ngoài thì Hagia Sofia lại rất quyến rũ khi quan sát ở bên trong. Riêng mái vòm của không gian rộng lớn này khiến du khách ngỡ ngàng: cao 56 mét, đường kính 31 mét.
Cách đó chỉ hơn 150 mét là Basilica Cistern, một địa chỉ tham quan rất xứng đáng vì là kiến trúc ngầm của người La Mã sử dụng làm hồ chứa nước vĩ đại, dài 138 mét, ngang gần 65 mét (khoảng 9800 mét vuông, có thể chứa đựng đến 80.000 m3 nước sạch). Nó được xây dựng vào thế kỷ 6 sau Công nguyên, dưới thời hoàng đế Justinian của Đế chế Byzantin. Đây là hầm chứa nước lớn nhất trong số hàng trăm “xì-tẹc” ngầm ở Constantinople ngày xưa. Chống đỡ trần hầm là một rừng cột đá hoa cương – cụ thể là 336 cột cao 9 mét, xếp thứ tự thành 12 hàng với mỗi hàng là 28 cột. Gần đây, Cistern càng nổi tiếng là địa chỉ phải đến tham quan khi du lịch Istanbul hơn nhờ là bối cảnh trong phần kết của phim trinh thám ăn khách Inferno (Hỏa ngục) với tài tử Tom Hanks, chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Dan Brown, người Mỹ.
Dấu ấn “lale” Có rất nhiều đền đài, vật phẩm nghệ thuật được kiến trúc theo hình búp hoa uất kim hương. Đúng rồi, đã có lúc trong thời xưa, tulip được xem là biểu trưng của sự phong phú tài sản vật chất lẫn sự khá giả về thẩm mỹ. Những thương nhân bước đi trên con đường tơ lụa năm xưa đã bị sắc đẹp của những đóa hoa dại này chinh phục và họ đã mang chúng từ Trung Á và vùng đất phía đông đất nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay đến vùng Anatolia vào thế kỷ 11 sau Công nguyên để rồi từ đó tulip tỏa lan sang đến tận châu Âu.
Hoa tulip màu đỏ với những cánh hoa nhọn thường được dùng trang điểm cho các vườn hoa trong dinh thự của các sultan của đế chế Ottoman. Loại hoa đặc biệt này là motif quen mắt nhất trong rất nhiều kiến trúc, từ những tấm ngói lợp nhà qua đến những viên gạch lát tường bên trong những giáo đường Hồi giáo. Ngày nay tulip vẫn còn được xem là quốc hoa Thổ, được thể hiện ngay trên thân những cánh chim sắt của Turkish Airlines và là logo chính thức của Turkish Tourism, cơ quan phụ trách du lịch quốc gia.
Thời hiện đại, “Lale” vẫn là tên gọi phổ biến nhất của phái nữ nước này. Và tulip hiện diện điểm tô trên những cái ly nhỏ bằng thủy tinh trong mà người Thổ dùng để uống trà (chay) rất nhiều lần mỗi ngày; trên những tô, chén, đĩa sành sứ được bày bán trong ngôi chợ khổng lồ Grand Bazaar với hơn 4000 cửa hàng ở Istanbul và trên những tấm thảm dày đã được nâng niu dệt tay thật công phu trong suốt một thời gian dài bởi các thiếu nữ ẩn mình bên trong nhà riêng ở vùng nông thôn. Món tiền lớn thu được từ việc bán thảm sẽ là khoản tiền làm vốn cho các cô khi lập gia đình.
Không được ngắm tulip cũng chẳng sao vì trong suốt hành trình dài ngày dọc ngang đất nước nằm vắt vẻo giữa châu Á và châu Âu này, chúng tôi đã ngắm được vô số những loài hoa đẹp. Từ rừng hoa cải dại màu đỏ, màu trắng, màu vàng phủ kín những cánh đồng rộng lớn đang chờ đến ngày được chăm bón, nhận những hạt giống lúa mì mới. Qua vô vàn những gốc hồng cao to, cứng cáp đang khoe những bông to như cái tô, cái đĩa ở làn ranh rộng ngăn đôi những con đường dài nối liền thành phố này với thành phố kia, tỉnh này với tỉnh nọ.